Cần đánh giá lại hệ thống miễn visa cho các nước hiện nay có đạt hiệu quả rõ ràng không. Nếu chưa áp dụng miễn phí visa cho nhiều quốc tịch, chính sách visa chưa được thông thoáng thì phải áp dụng công nghệ duyệt e-visa tốc độ, tạo điều kiện thuận lợi cho du khách khi làm các thủ tục liên quan đến visa…
Đây là mong muốn của hầu hết doanh nghiệp du lịch cũng như du khách khi vẫn còn những rào cản để thu hút khách quốc tế đến Việt Nam. Thay vì chọn Việt Nam làm điểm đến, du khách sẽ chọn các nước có chính sách thông thoáng hơn về visa.
Mặc dù chúng ta đã mở cửa hoàn toàn, gỡ bỏ hết rào cản so với trước dịch, nhưng khách quốc tế vẫn chưa mặn mà đến với Việt Nam. Nguyên nhân thì có nhiều nhưng theo ông Nguyễn Sơn Thủy, Giám đốc Công ty TNHH Du lịch Duy Nhất Đông Dương, nguyên nhân chính vẫn là chính sách về thị thực (visa).
Phân tích tình hình hiện nay khi khách quốc tế đến Việt Nam vẫn chưa đạt như kỳ vọng, ông Nguyễn Sơn Thủy cho rằng về khách quan, hiện tại các thị trường lớn nhất vào Việt Nam chiếm gần 70% khách quốc tế vào năm 2019 là các nước Đông Bắc Á (bao gồm Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Đài Loan) chưa mở cửa thực sự.
Nhiều thị trường còn đóng cửa, chưa rõ “ngày trở lại” như Trung Quốc, Đài Loan. Còn Nhật Bản thì mới thông báo cho phép khách đến du lịch từ 7/9 (nhưng vẫn có một số quy định về vaccine và đặt dịch vụ qua công ty lữ hành). Thị trường Hàn Quốc có phần sáng sủa hơn nhưng vẫn còn áp dụng cách ly khi quay về nước nên nhiều hãng hàng không cắt giảm các chuyến bay vào tháng 9 và 10.
Đối với thị trường châu Âu và châu Mỹ, chiến sự giữa Nga và Ukraine đã tác động đáng kể đến nền kinh tế và đời sống người dân của các nước châu Âu, Australia, Anh và Mỹ. Giá xăng dầu, nhiên liệu đầu vào tăng, lạm phát tăng, chiến tranh thương mại, thất nghiệp, việc làm… là những vấn đề gây lo lắng và gánh nặng cho người dân các quốc gia này. Do vậy, nhu cầu đi du lịch xa đang trở thành thứ xa xỉ.
Đông Nam Á vẫn là thị trường sáng sủa, tiềm năng nhất cho Việt Nam hiện tại. Vì các nước này có chính sách mở cửa tương đồng Việt Nam, khoảng cách địa lý gần, chỉ mất 2-3 giờ bay trực tiếp từ nước ngày qua nước kia, giao thông hàng không đã có nhiều chuyến bay hằng ngày. Do vậy, cần quan tâm và tập trung khai thác thị trường khách Đông Nam Á lúc này.
Về thị trường Ấn Độ, gần đây Vietjet đã triển khai nhiều đường bay nối trực tiếp các thành phố Ấn Độ đến Việt Nam, dự kiến có tới 19 đường bay vào cuối năm 2022. Đây là thị trường lớn, có thể thu hút mạnh mẽ để bù lấp các thị trường lớn khác từ Đông Bắc Á.
Theo ông Nguyễn Sơn Thủy, những nguyên khách quan trên một phần tác động đến lượng khách quốc tế vào Việt Nam chưa nhiều nhưng về chủ quan, visa là một “nút thắt cổ chai” mà bao lâu nay chúng ta vẫn chưa gỡ được.
Hiện tại, các doanh nghiệp du lịch đề xuất gia hạn visa 30 ngày và hy vọng yêu cầu này sẽ được chấp thuận sớm. Tuy nhiên, để tạo điều kiện cho khách quốc tế vào Việt Nam thì hệ thống e-visa phải phê duyệt đúng hạn, xác nhận lộ trình nộp visa của du khách, hoàn trả đúng hạn. Kích hoạt ngay việc xét duyệt nhân sự trước khi cập nhập bằng cơ chế visa on arrival.
“Các doanh nghiệp lữ hành quốc tế đang rất mong muốn triển khai theo kênh này, tạo điều kiện cho du khách nhập cảnh vào Việt Nam thuận lợi hơn. Chính phủ cũng cần mở rộng visa miễn phí cho nhiều quốc tịch có hệ số an toàn cao như các nước Bắc Âu, châu Âu, hoặc Australia”, ông Nguyễn Sơn Thủy nêu ý kiến.
Ông Nguyễn Sơn Thủy cho rằng hiện tại, chúng ta đã tổ chức nhiều hội thảo, hội nghị bàn giải pháp gỡ vướng cho ngành du lịch, thu hút khách quốc tế. Nhưng các hoạt động xúc tiến, thu hút bên ngoài lại ít triển khai. Vì vậy, cơ quan quản lý nhà nước về du lịch cần đầu tư chi phí và đội ngũ làm xúc tiến du lịch mạnh mẽ hơn. Trong khi còn nhiều quốc gia đóng cửa thì Việt Nam phải tranh thủ thời điểm này để quảng bá du lịch Việt Nam ra thế giới nhiều hơn, đồng bộ hơn.
Cũng theo ông Nguyễn Sơn Thủy, lâu nay, chúng ta chưa xây dựng hệ thống văn phòng đại diện du lịch Việt Nam tại nước ngoài như các nước Thái Lan, Singapore, Đài Loan (Trung Quốc), Hàn Quốc… nhưng chúng ta có thể sử dụng mạng lưới đại sứ quán, lãnh sự quán tại nước ngoài để chủ động, chủ trì các hoạt động quảng bá, xúc tiến du lịch đồng loạt tại thời điểm hiện nay.
“Tôi nghĩ, thời điểm này, mạng lưới ngoại giao Việt Nam tại nước ngoài sẽ nhận nhiệm vụ chính trị quan trọng xúc tiến hình ảnh du lịch quốc gia. Bên cạnh đó huy động thêm các nguồn lực xã hội trong nước và doanh nghiệp Việt Nam tại nước ngoài tham gia cùng”, ông Thủy nói.
Ông Nguyễn Sơn Thủy đề xuất cần đánh giá lại hệ thống miễn visa cho các nước vừa rồi có đạt hiệu quả rõ ràng không? Nếu thấy rõ hiệu quả thì nên tiếp tục mở rộng thêm cho nhiều nước như các quốc gia khác đã từng áp dụng. Đơn cử rõ nhất khi Nhật Bản miễn phí visa cho Thái Lan, thì người Thái ồ ạt du lịch Nhật Bản trong nhiều năm trước dịch COVID-19.
Nếu chúng ta chưa áp dụng miễn visa cho nhiều quốc tịch, thì phải áp dụng công nghệ duyệt e-visa thật nhanh, thật sự tốc độ. Ví dụ rút ngắn thời gian duyệt visa online lên trong vòng 1-2 ngày. Đồng thời mở kênh visa on arrival cho du khách.
Ông Thảo cho biết, dịp nghỉ hè và lễ Quốc khánh vừa qua, tình hình đón khách du lịch khá khả quan, dòng khách du lịch quay trở lại đã mang lại nguồn thu nhập đáng kể sau 2 năm dịch. Đối với Công ty ông, lượt khách tăng 20% so với năm 2019, tuy nhiên trong số đó khách quốc tế rất ít, không đáng kể so với trước đây.
Theo ông Thảo, khách quốc tế đến chưa nhiều do một số nguyên nhân trong đó hiện nay không phải là “thời điểm vàng” của khách quốc tế. Đối với Khánh Hòa nói riêng, trước đây là địa điểm du lịch chính của khách Nga, thường đến nhiều từ tháng 9-10 và mùa đông, lễ Noel. Mặt khác, các thị trường truyền thống là Nga đang chịu ảnh hưởng do tình hình chiến sự căng thẳng. Trung Quốc vẫn đang bị ảnh hưởng từ dịch bệnh COVID-19, gây ra một sự sụt giảm lượt khách quốc tế đáng kể.
“Thực tế tình hình sau dịch, vấn đề kinh tế, chi phí tour là một mối quan tâm lớn đối với khách du lịch. Khi làm việc với các đối tác, họ sẽ có sự lựa chọn, so sánh chi phí tour khi đến các nước và xem xét khả năng hầu bao của mình như thế nào để tiết kiệm chi phí nhất có thể. Rõ ràng khi có sự cân nhắc như vậy thì chi phí đến Việt Nam sẽ cao hơn khi so sánh với một số nơi như Indonesia, Thái Lan…. Trong đó chính sách visa đóng một phần lớn, đẩy giá thành tour lên cao, chênh lệch hơn nhiều so với các nước vừa nói”, ông Thảo chia sẻ.
Đồng quan điểm liên quan đến chính sách visa, Tổng Giám đốc AZA Travel Nguyễn Tiến Đạt cho rằng chính sách thị thực của Việt Nam vẫn chưa đủ sức hấp dẫn so với các nước trong khu vực. Số lượng các quốc gia được Việt Nam miễn thị thực vẫn còn rất hạn chế. Du khách đến từ những thị trường xa thường có nhu cầu đi du lịch từ 18-21 ngày, nhưng phần lớn các quốc gia mới chỉ đang được hưởng chế độ miễn thị thực 15 ngày, dẫn đến không thu hút được khách có khả năng lưu trú dài ngày với mức chi tiêu cao.
Các doanh nghiệp lữ hành mong muốn được tăng số ngày miễn thị thực cho các thị trường xa từ 15 ngày lên 30 ngày, cùng với đó là đơn giản hóa và chuyên nghiệp hóa việc cấp thị thực điện tử, tạo sự thoải mái, nhanh chóng, thuận lợi cho du khách.
Theo bà Vũ Thị Hồng Quyên, Giám đốc Công ty TNHH MTV Dịch vụ lữ hành Saigontourist tại Quảng Ninh, mùa khách quốc tế (Inbound), thường bắt đầu từ cuối tháng 9, đầu tháng 10 đến khoảng tháng 4 năm sau. Do vậy, mùa hè vừa qua chưa phải thời điểm để nhận định hay đánh giá về khách Inbound.
Riêng đối với du lịch nước ngoài, hiện còn một số bất cập do những thay đổi về chính sách phòng chống dịch COVID-19 tại các nước và tiến độ mở cửa cho khách du lịch Việt Nam của các nước, nhất là các nước điểm đến quan trọng của thị trường khách ra nước ngoài (Outbound). Vì vậy cần có những kế hoạch cụ thể xúc tiến du lịch tại các thị trường trọng điểm.
Còn theo ông Nguyễn Sơn Thủy – Giám đốc Công ty TNHH Du lịch Duy Nhất Đông Dương, bên cạnh việc xúc tiến du lịch qua hình ảnh các chuyến thăm của nguyên thủ quốc gia, cơ quan quản lý nhà nước về du lịch, Tổng cục Du lịch phải huy động nguồn lực xã hội và Nhà nước để xúc tiến đồng loạt các thị trường trọng điểm, để truyền tải thông điệp và hình ảnh du lịch quốc gia ra thế giới nhiều hơn nữa.
Hiện tại trong lúc nhiều nước chưa mở cửa, nguồn lực còn hạn chế nên có thể xúc tiến các thị trường Đông Nam Á, bảo đảm tính hiệu quả và thu hút được ngay lượng khách du lịch quốc tế trong năm nay. Năm 2023 có thể tiếp tục xúc tiến các thị trường xa như châu Âu, Australia, Mỹ.
Tổng cục Du lịch Việt Nam cần xây dựng mới các chủ đề du lịch Việt Nam chuyên nghiệp sau đại dịch để thống nhất truyền thông mạnh mẽ và nhịp nhàng tại các quốc gia. Sau đại dịch có nhiều thay đổi trong cấu trúc sản phẩm du lịch Việt Nam vì vậy cần xây dựng hình ảnh, sản phẩm, thông tin chủ đề nhất quán, xuyên suốt và chuyên nghiệp trong các sự kiện giới thiệu du lịch Việt Nam.
Sau đại dịch, Việt Nam cần hình thành các sản phẩm du lịch cụ thể, chủ đề mạch lạc, ấn tượng, giàu bản sắc văn hóa, con người Việt Nam. Cập nhật lại các điểm du lịch mới. Định hướng cho các nhà đầu tư hoặc địa phương xây dựng sản phẩm du lịch bền vững, sang trọng và đẳng cấp. Từng bước nâng cấp dịch vụ du lịch tại nhiều điểm đến theo hướng ấn tượng, sang trọng và bền vững.
Cùng ý kiến với ông Nguyễn Sơn Thủy, ông Phan Đình Thảo, Tổng Giám đốc Công ty TNHH HTS International (Khánh Hòa) cho rằng ngành du lịch nên chọn ra một số thị trường chiến lược trong thời gian tới và có những chính sách ưu tiên cho thị trường chiến lược này.
Chẳng hạn như đối với tỉnh Khánh Hòa đang tập trung vào thị trường Ấn Độ nên mong muốn các bộ, ngành xây dựng chính sách “phi visa” kích cầu được thị trường trọng tâm này.
“Việc miễn visa sẽ làm giảm nguồn thu đầu vào nhưng bù lại khi khách đến nước mình, họ tiêu dùng, chi trả cho du lịch thì chúng ta vẫn thu được một nguồn lợi đáng kể, bù lại nguồn thu đầu vào nên không thiệt thòi đi đâu cả”, ông Thảo nói.
Bên cạnh đó, ngoài các thị trường truyền thống như Nga, Hàn Quốc, Trung Quốc… thì các thị trường khác như Ấn Độ có rất ít thông tin về du lịch, con người, đất nước Việt Nam. Vì vậy, cần tập trung vào việc xúc tiến, quảng bá du lịch ngay tại các thị trường mới.
Theo bà Vũ Thị Hồng Quyên, du lịch là ngành chịu tác động không nhỏ của các yếu tố khách quan bên ngoài, trong bối cảnh dịch bệnh vẫn chưa hoàn toàn chấm dứt, việc phát triển của ngành du lịch sẽ đòi hỏi sự linh hoạt, thích ứng và phát triển tốt nhất trong điều kiện chung. Để phát triển bền vững, đối với doanh nghiệp, vấn đề hàng đầu vẫn là công tác quản trị, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực chuyên môn.
Ngoài ra, về mặt chính sách, Nhà nước và các bộ, ngành cần chú trọng kiểm soát việc cạnh tranh lành mạnh trên thị trường, bảo đảm cho du khách tận hưởng được dịch vụ và trải nghiệm tốt khi đi du lịch, tránh sử dụng những loại tour không đồng, tour chất lượng kém; xây dựng chính sách visa thông thoáng để thu hút khách du lịch đến với Việt Nam. Đối với du lịch nước ngoài, cần có chế tài nghiêm khắc với những công ty mạo danh kinh doanh du lịch nước ngoài để đưa người ra nước ngoài trái phép nhằm tránh cho các công ty du lịch bị ảnh hưởng tiêu cực khi các nước siết visa đối với người Việt Nam.